SwePub
Tyck till om SwePub Sök här!
Sök i SwePub databas

  Utökad sökning

Träfflista för sökning "hsv:(SAMHÄLLSVETENSKAP) ;spr:vie;mspu:(report)"

Sökning: hsv:(SAMHÄLLSVETENSKAP) > Vietnamesiska > Rapport

  • Resultat 1-3 av 3
Sortera/gruppera träfflistan
   
NumreringReferensOmslagsbildHitta
1.
  • Zausmer, Rebecca, et al. (författare)
  • Quấy rối tình dục trong truyền thông : nhận biết, ngăn chặn và xử lý dành cho lãnh đạo và nhân viên
  • 2018
  • Rapport (populärvet., debatt m.m.)abstract
    • Trong năm 2017, phong trào #Metoo và Time’sUp đã đưa vấn đề quấy rối tình dục trở thành tâm điểm của mọi người dân. Hai phong trào này ban đầu được hình thành tại Mỹ, rồi phát triển một cách mạnh mẽ và trở thành chiến dịch cho mọi công dân toàn cầu ở mọi quốc gia, ở khắp các ngành công nghiệp, văn hóa và giới tính.Nam giới và nữ giới - những người gây dựng hai phong trào này đã cho ngành truyền thông một cơ hội để giải quyết các vấn đề về quấy rối tình dục trong tương lai.Thay đổi bắt đầu từ việc nâng cao nhận thức, đối thoại và đặc biệt là sự hình thành chính sách và quy trình hình thành môi trường làm việc không có hiện tượng quấy rối tình dục.Cuốn sách này là bản hướng dẫn thực hành cho cơ quan báo chí và nhân viên phòng tránh và giải quyết những vấn đề liên quan đến quấy rối tình dục tại công sở. Nó là những bước đi đầu tiên đầy hy vọng cho chặng đường hướng đến một nền công nghiệp truyền thông không có vấn đề quấy rối tình dục, từ đó đặt ra những quy chuẩn thực thi tốt nhất, có thể lan toả khắp các ngành công nghiệp toàn cầu, như một sự đóng góp nhỏ với phong trào lớn hơn mà WIN-IFRA rất vinh dự khi là một phần trong đó.Tuy cuốn sách hướng dẫn này nhằm giải quyết những vấn đề và các khía cạnh liên quan đến quấy rối tình dục nhưng nó chưa toàn diện. Những hướng dẫn này không tập trung vào vấn đề quấy rối tình dục và mối đe dọa an ninh mà những nhà báo nữ đang phải đối mặt khi tác nghiệp tại hiện trường. Có rất nhiều tài liệu hay đã từng đề cập về vấn nạn quấy rồi tình dục và đã được dẫn nguồn tham khảo trong tài liệu này. Bên cạnh đó, cuốn sách này cũng chưa đề cập chi tiết đến những hành vi cũng như các vấn đề phát sinh đã xảy ra trên mạng, một vấn đề mà chúng tôi hy vọng sẽ sớm xây dựng được những tài liệu liên quan. Cuối cùng, cuốn sách này không và không thể giải quyết được các hậu quả khôn lường cho những nhà báo nữ, những người đã mất cơ hội thăng tiến, phát triển sự nghiệp do theo đuổi giải quyết các vấn đề về quấy rồi tình dục trong quá trình làm việc của họ. Điều bất công này cần phải được đối mặt và thừa nhận để có thể đạt được kết quả tốt hơn trong tương lai.Chúng tôi thực sự muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến những đồng nghiệp trong lĩnh vực truyền thông, những người đã chia sẻ thẳng thắn về kiến thức chuyên môn, phương pháp khắc phục và những hướng đi cụ thể để giúp chúng tôi tạo ra một cuốn sách không chỉ là những câu chữ lý thuyết, mà còn là những hướng dẫn thực tế nhất. Hy vọng chúng ta sẽ cùng nhau tìm ra được những giải pháp hữu hiệu nhất có thể để bảo vệ được quyền lợi và nâng cao vai trò lãnh đạo và tiếng nói của phụ nữ trong lĩnh vực báo chí - truyền thông.
  •  
2.
  • Posetti, Julie, et al. (författare)
  • Báo chí,“Tin giả” &Tin xuyên tạc : Sổ tay Giáo dục và Đào tạo Báo chí
  • 2018
  • Rapport (populärvet., debatt m.m.)abstract
    • UNESCO hoạt động với mục đích tăng cường giáo dục báo chí, và ấn phẩm này là nỗ lực mới nhất nhằm cung cấp những nguồn lực tri thức hiện đại nhất.Ấn phẩm này nằm trong “Sáng kiến toàn cầu vì sự xuất sắc trong giáo dục báo chí”, một trọng tâm của Chương trình Quốc tế Phát triển Truyền thông (IPDC) của UNESCO. Sáng kiến này nỗ lực tìm hiểu công tác giảng dạy, thực hành và nghiên cứu báo chí từ góc độ toàn cầu, bao gồm chia sẻ các thực hành tốt trên thế giới.Theo đó, cuốn sổ tay này có mục đích trở thành một giáo trình mẫu trên phạm vi quốc tế, cho phép áp dụng hoặc sửa đổi, để đáp trả vấn nạn tin xuyên tạc đang nổi lên trên toàn cầu gây thách thức cho các xã hội nói chung và ngành báo chí nói riêng.Cuốn sổ tay này tránh giả định rằng thuật ngữ “tin giả” có một ý nghĩa rõ ràng hay phổ biến.1 “Tin” có nghĩa là thông tin có thể kiểm chứng vì lợi ích công, nên những thông tin không đáp ứng được tiêu chuẩn này không xứng đáng được gọi là tin. Như vậy hiểu theo nghĩa này, “tin giả” là một thuật ngữ mâu thuẫn dễ dàng phá hoại tính tin cậy của những thông tin thật sự chạm đến ngưỡng cửa của khả năng có thể kiểm chứng và lợi ích công: tin tức thật.Để hiểu rõ hơn các trường hợp liên quan đến sự thao túng lợi dụng ngôn ngữ và các quy ước của các thể loại tin tức, ấn phẩm này phân tích các hành động gian trá này theo đúng bản chất của chúng: một phạm trù thông tin giả mạo cụ thể trong phạm vi của các hình thức tin xuyên tạc ngày càng đa dạng, bao gồm các định dạng giải trí như tranh vui.Trong ấn phẩm này, tin xuyên tạc nói chung được dùng để chỉ những nỗ lực cố ý (thường là có tổ chức) hòng gây nhầm lẫn hoặc thao túng mọi người thông qua việc cung cấp thông tin không trung thực. Hành động này thường được kết hợp với những chiến lược truyền thông song song và giao thoa và một loạt các chiến thuật khác như tấn công an ninh mạng hay gây thất thiệt cho các cá nhân. Tin sai nói chung được dùng để chỉ những thông tin gây nhầm lẫn được tạo ra hay lan truyền nhằm mục đích thao túng hay làm hại. Cả hai đều là vấn đề cho xã hội, nhưng tin xuyên tạc đặc biệt nguy hiểm vì nó thường là hành động có tổ chức, được trang bị đầy đủ, và được hậu thuẫn bởi công nghệ tự động.Những nhà thầu tin xuyên tạc rình mò những người tiếp nhận thông tin dễ dãi hay phiến diện với hy vọng sẽ tuyển được những đội quân khuếch đại và nhân rộng thông tin. Bằng cách này, họ cố gắng cổ vũ chúng ta trở thành những đường dây truyền tin bằng cách lợi dụng thiên hướng chia sẻ thông tin vì nhiều lẽ của chúng ta. Một mối nguy hiểm đặc biệt là “tin giả” theo nghĩa này thường miễn phí - nghĩa là những ngườikhông có khả năng mua báo chí chất lượng, hoặc không tiếp cận được với dịch vụ đưa tin công độc lập, đặc biệt dễ trở thành nạn nhân của cả tin xuyên tạc và tin sai.Sự lan truyền tin xuyên tạc và tin sai có thể xảy ra chủ yếu là nhờ các mạng xã hội và dịch vụ nhắn tin xã hội; điều này đặt câu hỏi về mức độ kiểm soát và tự kiểm soát của những công ty cung cấp các dịch vụ này. Với đặc tính là nền tảng trung gian, hơn là nguồn tạo nội dung, các doanh nghiệp này cho đến nay nói chung mới chỉ bị kiểm soát nhẹ nhàng (ngoại trừ trong lĩnh vực bản quyền). Tuy nhiên, trong bối cảnh áp lực đối với họ ngày càng gia tăng, cũng như đứng trước những nguy cơ đe dọa tự do biểu đạt của sự kiểm soát thái quá, những bước tiến theo hướng tự kiểm soát đang gia tăng - mặc dù còn chắp vá.2 Vào năm 2018, Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc (LHQ) về tự do biểu đạt và tự do quan điểm đã xoáy vào vấn đề này trong báo cáo thường niên, thúc giục các nhà mạng học hỏi từ sự tự kiểm soát trong ngành truyền thông tin tức, và tuân thủ hơn các tiêu chuẩn của LHQ về quyền phổ biến, tìm kiếm và tiếp nhận thông tin.3 Trong hệ sinh thái đang phát triển nhanh chóng của các biện pháp được thực hiện bởi cả nhà nước lẫn doanh nghiệp, các nhà báo và các hãng tin, đối tượng của ấn phẩm này, giữ một vai trò rất quan trọng.
  •  
3.
  •  
Skapa referenser, mejla, bekava och länka
  • Resultat 1-3 av 3

Kungliga biblioteket hanterar dina personuppgifter i enlighet med EU:s dataskyddsförordning (2018), GDPR. Läs mer om hur det funkar här.
Så här hanterar KB dina uppgifter vid användning av denna tjänst.

 
pil uppåt Stäng

Kopiera och spara länken för att återkomma till aktuell vy